Báo cáo Công nghiệp Hàng không Vũ trụ của Canada, được công bố vào mùa thu năm 2021, cung cấp dữ liệu từ năm 2019 đến năm 2020, phác thảo các tác động khác nhau đối với ngành hàng không vũ trụ của Canada.
Theo Cơ quan Quản lý Thương mại Quốc tế, gần 80% lĩnh vực hàng không vũ trụ của Canada theo định hướng dân sự và 20% theo định hướng quân sự. Cơ quan cũng tuyên bố rằng ngành công nghiệp hàng không vũ trụ của Canada có hai ngành phụ chính. Một là sản xuất máy bay (dân dụng, quốc phòng và vũ trụ), chiếm 69% ngành công nghiệp. Theo báo cáo, một số hoạt động kỹ thuật liên quan đến bộ phận này là lắp ráp máy bay và các bộ phận cấu thành của chúng như cánh, đuôi, thân trung tâm của máy bay và đối với bánh răng điện, bao gồm động cơ, thiết bị mô phỏng chuyến bay, vệ tinh viễn thông. Các lĩnh vực khác là hệ thống không gian, máy bay trực thăng, cánh quạt và các thành phần điện khác. Lĩnh vực phụ thứ hai có tên là bảo trì, sửa chữa và đại tu máy bay (MRO) đóng góp vào 31% toàn ngành. Theo báo cáo, một số dịch vụ được cung cấp trong danh mục này có liên quan đến sửa chữa, bảo dưỡng, kiểm tra, vận chuyển và hơn thế nữa.
Nhìn vào sự tiến bộ của ngành hàng không vũ trụ trong năm 2019 theo báo cáo, Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đã ở mức cao nhất mọi thời đại, 28 tỷ đô la, khoảng 39 tỷ đô la trong tổng doanh thu của Canada từ ngành hàng không vũ trụ. Và Canada đạt 100% cho doanh thu thu được từ sản xuất máy bay dân dụng toàn cầu (ví dụ về máy bay dân dụng là, máy bay kinh doanh, máy bay khu vực, hàng không chung, máy bay phản lực lớn, máy bay trực thăng và hơn thế nữa), cũng như doanh thu sản xuất hàng không vũ trụ.
Ngày nay, Canada là nơi đầu tiên trên thế giới về cường độ R&D (các công ty tập thể tập trung vào việc cải tiến các công nghệ liên quan đến máy bay) và tương tự đối với việc làm liên quan STEM (Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật và Toán học), kết quả cho thấy nó tăng gấp ba lần so với trung bình sản xuất. Canada cũng đứng đầu về thiết bị mô phỏng chuyến bay dân dụng, đứng thứ ba về động cơ dân dụng và xếp ở vị trí thứ tư về máy bay dân dụng.
Tổng doanh thu hằng năm trong lĩnh vực hàng không vũ trụ của Canada vào năm 2020 là 30 tỷ đô la và GDP là 22 tỷ đô la, so với 28 tỷ đô la vào năm 2019.
Khi nói đến việc làm, có sự phân chia phạm vi trong báo cáo. Sản xuất (bao gồm cả lĩnh vực dân dụng, quốc phòng và vũ trụ) có gần 58.000 người được tuyển dụng vào năm 2020, 60% ở Quebec, 22% ở Ontario, 14% ở Tây Canada và 4% ở Đại Tây Dương Canada. Trong ngành Sửa chữa Bảo dưỡng và Đại tu (MRO), có khoảng 27.000 người được tuyển dụng vào năm 2020. Phần lớn, 39%, đến từ Tây Canada, 33% từ Ontario, 22% từ Quebec và sáu% từ Đại Tây Dương Canada.
Một phần ba số việc làm thuộc ngành hàng không vũ trụ của Canada (bao gồm cả sản xuất và MRO). Các nhà tuyển dụng khác của lĩnh vực này là các nhà cung cấp Canada cộng với chi tiêu tiêu dùng của các nhân viên có liên quan. Tổng cộng, những hạng mục này đã tạo ra khoảng 207.000 việc làm vào năm 2020.
Danh sách các loại máy bay tiên tiến mà Canada thiết kế và sản xuất bao gồm máy bay, trực thăng, máy bay phản lực, vệ tinh, tên lửa và các bộ phận cấu thành của chúng như động cơ. Hầu hết các máy bay của Canada được bán cho mục đích thương mại, xuất khẩu và buôn bán trên toàn cầu.
10 thị trường xuất khẩu hàng đầu của Canada tính đến năm 2020 là:
- Hoa Kỳ (đối tác thương mại chính của Canada)
- Theo CubeToronto , khoảng 56% xuất khẩu hàng không vũ trụ của Canada là sang Mỹ
- Pháp
- Vương quốc Anh
- Đức
- Trung Quốc
- Mexico
- Brazil
- Singapore
- Thụy sĩ
- Châu Úc
Do tình trạng đóng cửa nghiêm ngặt, nhu cầu từ thị trường xuất khẩu thấp và việc di chuyển bằng máy bay ít thường xuyên hơn, ngành công nghiệp này đã bị sụt giảm lợi nhuận và việc làm. Bất chấp một số thời kỳ hạn chế, ngành công nghiệp hàng không vũ trụ đã xuất khẩu 75% sản phẩm hàng không vũ trụ của Canada sang 186 quốc gia vào năm 2020.
Tóm lại, doanh thu năm 2019 đã đạt gần 39 tỷ đô la, trong khi tổng doanh thu năm 2020 đạt 30 tỷ đô la. Năm 2020, GDP giảm 6 tỷ đô la so với năm 2019, dẫn đến GDP là 22 tỷ đô la. Cuối cùng, doanh thu sản xuất máy bay dân dụng toàn cầu đã giảm 44%, doanh thu, và sẽ cần đến năm 2025 để phục hồi mức của năm 2019.
Chi tiết ngắn gọn về tiến trình lịch sử của Máy bay Canada
Trong những năm đầu của thế kỷ 20, kỷ nguyên phát triển của ngành hàng không vũ trụ đang diễn ra. Canadair, công ty hàng không tiên phong đầu tiên của Canada được thành lập vào năm 1911 (hiện thuộc sở hữu của một công ty Nhật Bản tên là Mitsubishi.)
Canadair đã giới thiệu nhiều khái niệm mới như “The Vedette”, được gọi là “con thuyền bay” đầu tiên của Canada. Một mô hình khác, được gọi là động vật lưỡng cư Canso, được thiết kế để sử dụng trong quân sự. Cả hai máy bay đều có khả năng nổi trên mặt nước, phục vụ cho nhiệm vụ tuần tra trên đại dương, cứu hộ trên không-trên biển và các chức năng khác trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
Bombardier Inc. được thành lập vào năm 1942, đã có phần thành công xứng đáng. Mặc dù công ty đã được bán vào năm 2021 cho một công ty sản xuất của Pháp có tên là Alstom do phải đối mặt với những thách thức về tài chính. Bombardier nằm trong danh sách 10 nhà sản xuất máy bay hàng đầu thế giới năm 2021. Kể từ khi thành lập, công ty đã tạo ra các nguyên mẫu của máy kéo Muskeg, xe trượt tuyết, máy bay phản lực tư nhân, xe quân sự và các phương tiện giao thông công cộng khác.
Pratt & Whitney Canada (P&WC) là một công ty có trụ sở tại Quebec. Đó là một bộ phận của công ty mẹ, Pratt & Whitney có trụ sở tại Hoa Kỳ. Công ty Canada là công ty hàng không vũ trụ toàn cầu chuyên sản xuất động cơ máy bay. Họ đã phát minh ra vô số loại động cơ cho các loại máy bay khác nhau và để bay an toàn trong môi trường đầy thử thách. Theo trang P&WC, một ví dụ về những cải tiến đáng chú ý của động cơ thở không khí là những mẫu PW100 PW150, tiêu thụ ít nhiên liệu hơn từ 25 đến 40% và tạo ra ít khí thải CO2 hơn 50%. Công ty có khoảng 13.400 khách hàng trên khắp thế giới, theo Chính phủ Canada.
Các thành tựu khác trong sản xuất hàng không vũ trụ bao gồm Canadarm, một cánh tay robot điều khiển từ xa dài 15 mét được phát minh vào năm 1981, đóng một vai trò quan trọng trong Chương trình Tàu con thoi của NASA. Các nguyên mẫu mới hơn là Canadarm2 và Dextre. Một ví dụ về vệ tinh mà Canada đã tạo ra vào năm 1962 là Alouette, theo dõi và đánh giá bầu khí quyển phía trên.
De Havilland chế tạo cánh cho các máy bay phản lực hỗ trợ thương mại và quân sự lớn. Một trong những chiếc máy bay lịch sử của họ là chiếc de Havilland Beaver. Máy bay bụi đầy màu sắc này có một trục quay ở phía trước, cánh được hỗ trợ trên đỉnh và bánh xe gắn vào chân kim loại của nó. Chức năng chính của máy bay bụi rậm là hạ cánh trên các hồ và sông nhỏ ở vùng hoang dã.
Sáng kiến trong công việc
Thủ tướng Justin Trudeau đã đầu tư 440 triệu đô la vào năm 2021 để cho phép các công ty hàng không vũ trụ như P&WC, Bell Textron Canada và CAE mở rộng các đổi mới sản phẩm mà họ cung cấp trên thị trường quy mô toàn cầu. Số tiền này cũng được dành cho các dự án hàng không xanh và công nghệ sạch.
Năm ngoái, chính phủ Canada đã đầu tư 250 triệu đô la vào một kế hoạch phục hồi kéo dài 3 năm có tên là Sáng kiến Phục hồi Khu vực Hàng không Vũ trụ (ARRI ). Theo báo cáo của CBC, nó đã được thiết kế để tài trợ cho các công ty Canada và các công ty trong lĩnh vực hàng không vũ trụ, hỗ trợ con đường phục hồi kinh tế của ngành, đồng thời giới thiệu 12.000 cơ hội việc làm và 6.200 sinh viên thực tập.
Theo tuyên bố trên trang của Chính phủ Canada, số tiền này là để “Giúp họ thực hiện việc ‘xanh hóa’ hoạt động của mình và áp dụng các thực hành bền vững với môi trường, cải thiện năng suất và tăng cường thương mại hóa, đồng thời đẩy mạnh hội nhập vào chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu”. Sáng kiến sẽ có hiệu lực đến tháng 3 năm 2024.